KIẾN GIẢI VỀ CHỮA TRỊ UNG THƯ - PHẦN 1: UNG THƯ LÀ BỆNH MÃN TÍNH, CÓ THỂ KHỐNG CHẾ VÀ CHỮA KHỎI ĐƯỢC.

"Ung thư là bệnh mãn tính có thể chữa trị, khống chế, thậm chí chữa khỏi được. Cách chữa trị thay đổi theo chuyển biến nhận thức. Tỷ lệ bệnh nhân mắc ung thư tử vong giảm chứng minh chuyển biến nhận thức này đã tiếp cận đúng phương hướng."

 

KIẾN GIẢI VỀ CHỮA TRỊ UNG THƯ - PHẦN 1 : UNG THƯ LÀ BỆNH MÃN TÍNH, CÓ THỂ KHỐNG CHẾ VÀ CHỮA KHỎI ĐƯỢC

 

"Ung thư là bệnh mãn tính có thể chữa trị, khống chế, thậm chí chữa khỏi được. Cách chữa trị thay đổi theo chuyển biến nhận thức. Tỷ lệ bệnh nhân mắc ung thư tử vong giảm chứng minh chuyển biến nhận thức này đã tiếp cận đúng phương hướng."

Báo đăng: “Năm 2005, tổng số người chết vì ung thư ở Mỹ lần đầu có xu hướng giảm”, “Ung thư là bệnh mãn tính có thể chữa trị, khống chế, thậm chí chữa khỏi được”.

Trong quá khứ cho rằng ung thư chắc chắn chết, thậm chí sống không quá ba tháng. Hiện nay cho rằng ung thư là bệnh mãn tính có thể chữa trị. Cách chữa trị thay đổi theo chuyển biến nhận thức. Tỷ lệ bệnh nhân mắc ung thư tử vong giảm chứng minh chuyển biến nhận thức này đã tiếp cận đúng phương hướng. Y học phương Tây được truyền từ Tây phương lại. Hiện nay tỷ lệ người mắc ung thư còn sống sót trên tổng dân số Mỹ là 1/29 còn tại Thượng Hải chỉ có 1%. Chênh lệch mỗi nơi rất cao. Điều này cho thấy nhận thức và chữa bệnh ung thư ở Thượng Hải vẫn bị bóng đen sai lầm của quá khứ bao phủ. Rất nhiều sinh mạng vô tội vẫn bị chết trong nhận thức y học và cách chữa trị sai lầm.Báo đăng: “Năm 2005, tổng số người chết vì ung thư ở Mỹ lần đầu có xu hướng giảm”, “Ung thư là bệnh mãn tính có thể chữa trị, khống chế, thậm chí chữa khỏi được”. Trong quá khứ cho rằng ung thư chắc chắn chết, thậm chí sống không quá ba tháng. Hiện nay cho rằng ung thư là bệnh mãn tính có thể chữa trị.Cách chữa trị thay đổi theo chuyển biến nhận thức. Tỷ lệ bệnh nhân mắc ung thư tử vong giảm chứng minh chuyển biến nhận thức này đã tiếp cận đúng phương hướng. Y học phương Tây được truyền từ Tây phương lại. Hiện nay tỷ lệ người mắc ung thư còn sống sót trên tổng dân số Mỹ là 1/29 còn tại Thượng Hải chỉ có 1%. Chênh lệch mỗi nơi rất cao. Điều này cho thấy nhận thức và chữa bệnh ung thư ở Thượng Hải vẫn bị bóng đen sai lầm của quá khứ bao phủ. Rất nhiều sinh mạng vô tội vẫn bị chết trong nhận thức y học và cách chữa trị sai lầm.

Nhận thức ung thư là bệnh mãn tính, xét từ góc độ tâm lý y học, có tác dụng an ủi đối với người bệnh. Loại an ủi này không phải là lừa gạt mà là lời nói thật, phù hợp khoa học. Ung thư từng bị đồn ầm ĩ là bệnh nan y, là bị phán tội tử hình. Ở nông thôn bệnh này được gọi là “Chữ đơn”, rất húy kỵ. Thực tiễn chứng minh thái độ này là rất không khoa học.Người và động vật khác nhau ở chỗ người là động vật có ý thức. Ý thức duy trì bình thường, hoạt động sinh mệnh con người mới bình thường được. Ý thức chi phối hoạt động sinh mệnh. Ý thức rối loạn, hoạt động sinh mệnh lập tức sa vào hỗn loạn. Chúng ta tuyên truyền ung thư chắc chắn chết, thực tế tạo nên chứng hoảng sợ ung thư, tạo nên ý thức rối loạn, yểm hộ giúp cho chữa trị, tương phản làm gia tăng khả năng hoạt động của ung thư, phá hoại hoạt động tự tổ chức chống ung thư của cơ thể con người.

“Trong những bệnh nhân ung thư, có khoảng 70% là tự mình dọa mình. Giáo sư Hà cho rằng bệnh nhân chết vì yếu tố tâm lý ít nhất chiếm 30-40%”.  “Trong số những bệnh nhân có khối u, 66% bệnh nhân mắc trầm cảm, 10% bệnh nhân tinh thần suy kiệt còn 8% bị rối loạn ám ảnh cưỡng chế. Điều này cho thấy ít nhất 84% bệnh nhân có vấn đề tâm lý ở những mức độ khác nhau”. Trong quá khứ, nhận định và tuyên truyền rằng mắc ung thư không sống được quá vài tháng tạo nên tâm lý khiếp sợ ung thư, rất bất lợi cho việc chữa trị. Nhiều bệnh nhân ung thư tử vong đều có liên quan đến sự tuyên truyền này. Hiện nay có một số bác sỹ vì muốn kéo thêm mối làm ăn, lấy danh nghĩa kiến thức y học, lợi dụng truyền thông tạo ra tâm lý khiếp sợ một số căn bệnh. Ví dụ như nói viêm cổ tử cung dẫn đến ung thư cổ tử cung, nên đến bệnh viện của anh ta kiểm tra, chữa trị. Viêm nhiễm có thể gây ra ung thư. Vùng không viêm nhiễm, cũng có thể gây ra ung thư. Bởi vậy, ung thư không phải là tất yếu do viêm nhiễm phát triển mà thành. Viết những dòng như vậy, là không có dụng ý tử tế gì, không có căn cứ khoa học, làm cho những chị em bị viêm cổ tử cung trở nên hoang mang.

Theo điều tra của tác giả, phàm là sử dụng thuốc Đông y tiêu trừ triệu chứng của người bệnh, ví dụ như khối u của bệnh nhân đau đớn, được thuốc Đông y làm cho hết đau, điều này có nghĩa là thuốc đã có tác dụng, khối u đã được chữa trị. Kiên trì dùng thuốc, nhất định đạt kết quả tốt.Ví như dùng thuốc Tây y giảm đau, mặc dù đau đớn biến mất nhưng có thể sẽ tái phát.Ngoài ra khả năng giảm đau của thuốc Tây sẽ càng ngày càng giảm, cho đến khi mất tác dụng thì thôi. Bởi vậy, thuốc thảo dược Trung Quốc tiêu trừ triệu chứng là điều chỉnh cân bằng. Cân bằng sinh lý cơ thể được điều chỉnh, khả năng chống ung thư tăng cao, khối u tự nhiên biến mất; ít nhất, có thể ngăn cản khối u không to ra và ngăn cản gây nguy hiểm tính mạng và cùng chung sống với chúng ta.Thuốc giảm đau tây y là làm tê liệt thần kinh.Phương pháp này tương tự như làm tê liệt khả năng kháng bệnh của cơ chế cơ thể tự điều chỉnh. Chính vì vậy, khi thuốc hết tác dụng, cơn đau lại tái phát và có phần dữ dội hơn. Có thể nói như thế này, ung thư vốn là bệnh mãn tính, hơn thế nữa rất nhiều loại thuốc Đông y đều có thể chữa được. Nó bị biến thành đáng sợ đến vậy là do thầy thuốc trong quá khứ phán đoán sai lầm. Sai lầm này làm cho bệnh nhân ung thư vội vội vàng vàng đi phẫu thuật, hóa xạ trị. Kết quả là làm gia tăng tốc độ di căn hoặc phá hỏng khả năng kháng bệnh tự thân cơ thể và cướp đi hy vọng sống sót của họ mau chóng hơn. Trong một điều tra ở phương Tây, trong thời gian bác sỹ đình công, tỷ lệ tử vong ngược lại lại thuyên giảm. Một trong những nguyên nhân là số bệnh nhân phẫu thuật giảm 60%, số người chết vì phẫu thuật giảm theo.

Đem hy vọng chữa ung thư trông cậy vào phẫu thuật là hành động dại dột tột cùng. Tôi không phản đối phẫu thuật. Nên phẫu thuật vẫn cần phải phẫu thuật nhưng không được coi đó là hy vọng cứu chữa bệnh nhân ung thư lớn nhất.